Rươi Tylorrhynchus heterochaetus (quatrefages 1865) thuộc nhóm giun nhiều tơ, sống cố định, ít di chuyển dưới lớp bùn ở độ sâu 10-50cm có lỗ thông với bề mặt đáy ở độ sâu 10-50cm, của vùng nước lợ, vùng triều các cửa sông ven biển nơi chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều. Từ lâu, người dân ở các vùng đồng bằng ven biển đều biết đến rươi như là một món đặc sản bổ dưỡng. Rươi có thể khai thác rải rác quanh năm nhưng tập trung vào hai thời điểm chính là tháng 5-6 và tháng 9-10 (Âm lịch). Hiện nay, rươi mang lại giá trị kinh tế quan trọng cho vùng ven biển Hải Phòng - Quảng Ninh và một số tỉnh như Hải Dương, Thái Bình và Nam Định, do giá bán sản phẩm thương phẩm cao và ổn định từ 450 - 500.000 đồng/kg, chi phí nuôi rươi thấp hơn so với chi phí nuôi các nguồn lợi thuỷ sản khác. Rươi có tập tính sống vùi dưới đáy, thức ăn chủ yếu là các loài thực vật, mùn bã hữu cơ,...Do vậy, phát triển nghề nuôi rươi không những cung cấp sản phẩm có giá trị phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn có vai trò quan trọng trong việc làm sạch môi trường, giữ cân bằng sinh thái trong vùng.

Chính vì vậy, nghề nuôi rươi đã và đang thu hút sự đầu tư về tài chính, nhân lực, kỹ thuật của các doanh nghiệp, các chủ hộ nuôi trồng thuỷ sản trong vùng. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản 1do ThS. Cao Văn Hạnh dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm rươi (Tylorrhynchus heterochaetus) quy mô hàng hóa” từ năm 2019 đến năm 2021 nhằm đẩy mạnh việc sản xuất giống và nuôi rươi trên quy mô lớn.
Đề tài nhằm thực hiện mục tiêu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm rươi làm thức ăn nuôi phát dục tôm bố mẹ và thực phẩm cho người quy mô hàng hoá.
Đề tài đã thu được các kết quả như sau:
- Đã sản xuất được 25,86 triệu con giống >1cm/con và tạo ra 5,39 tấn rươi thương phẩm. - Đối với công nghệ sản xuất giống rươi, tỷ lệ sống từ ấu trùng đến con giống >1cm đạt trung bình từ 15,24 - 18,58% (17,08%).
- Đối với nuôi trong bể, kích cỡ rươi thu hoạch đạt từ 0,57-0,63g/con; tỷ lệ sống đạt từ 80,67-81,54%; năng suất nuôi đạt 1,10-1,13kg/m2, trung bình đạt 1,11kg/m2.
- Đối với rươi nuôi ở ao lót bạt, kích cỡ rươi thu hoạch đạt 0,842g/con; tỷ lệ sống đạt 81,92%; năng suất nuôi đạt 0,391kg/m2.
- Đối với rươi nuôi tại ruộng, kích cỡ thu hoạch đạt 0,914g/con; tỷ lệ sống đạt 75,69%; năng suất nuôi đạt 0,69 tấn/ha.
Bên cạnh đó, những vấn đề về hoàn thiện công nghệ mà đề tài đã giải quyết được đó là: - nuôi vỗ rươi bố mẹ; xác định được chất bổ sung trong giai đoạn nuôi vỗ; xác định thành phần thức ăn thích hợp cho ấu trùng giai đoạn trôi nổi; xác định thức ăn thích hợp cho giai đoạn rươi xuống đáy; xác định một số yếu tố môi trường - bệnh trong bể nuôi.
Biện pháp kỹ thuật nuôi vỗ rươi đã góp phần tạo nguồn rươi bố mẹ cho sản xuất giống nhân tạo, chủ động và kéo dài được mùa vụ sản xuất giống ở những ở những thời điểm khác nhau trong năm.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21263/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)