Nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ứng dụng công nghệ copefloc là công nghệ nuôi dựa trên nguyên lý của công nghệ biofloc. Bản chất của công nghệ copefloc là phát triển các hệ sinh vật thủy sinh giầu dinh dưỡng đặc biệt là nhóm giáp xác chân chèo Copepoda và các hạt biofloc làm thức ăn trực tiếp cho tôm nuôi và duy trì cân bằng dinh dưỡng trong ao nuôi tôm. Khác với công nghệ biofloc, công nghệ này sử dụng lượng các bon ít hơn và tỷ lệ C/N không cần chính xác tuyệt đối, hơn nữa việc quản lý các hạt floc trong ao đơn giản hơn do thiết kế ao cho phép loại bỏ một phần biofloc.

Công nghệ Copefloc đã được ứng dụng ở một số vùng nuôi tôm tại Thái Lan, Ấn Độ, Indonexia… và đã mang lại những hiệu quả kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ Copefloc trong nuôi tôm ở qui mô nuôi thương phẩm chưa được thực hiện. Do đó, việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ Copefloc trong nuôi tôm tôm thẻ chân trắng sẽ góp phần đa dạng hình thức nuôi, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu của TS. Lê Văn Khôi tại Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Copefloc trong nuôi tôm thẻ chân trắng” từ năm 2018 đến năm 2021.
Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể như sau: xây dựng được quy trình công nghệ Copefloc với các chỉ tiêu sau kỹ thuật (+ Năng suất 10-15 tấn/ha/vụ, cỡ tôm thương phẩm: 40-50 con/kg, tỷ lệ sống >80%, sản phẩm tôm nuôi đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; Hệ số thức ăn FCR 30% so với mô hình nuôi tương tự về năng suất. + Quy trình công nghệ được đăng ký công nhận Tiến bộ kỹ thuật); xây dựng 03 mô hình nuôi tôm áp dụng quy trình ở 3 vùng sinh thái với quy mô 0,5 ha/mô hình; sản lượng tôm nuôi tối thiểu 10 tấn/mô hình; và sản xuất được 33 tấn tôm nuôi thương phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong thời gian ba năm, đề tài đã hoàn thành đầy đủ các nội dung nghiên cứu và kết luận như sau:
· Nguồn dinh dưỡng phù hợp để gây nuôi sinh khối thức nhiên là cám gạo lên men. Thức ăn tổng hợp được cho tôm ăn ở thời điểm sau 15 ngày thả giống.
· Mô hình thử nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng tại Hải Phòng, Bến Tre cho thấy năng suất tôm nuôi đạt 12,80-14,49 tấn/ha, kích cỡ thu hoạch 17,75 đến 22,475 30g/con (tương đương 44-56 con/kg). Hệ số chuyển đổi thức ăn từ 0,75-0,83 và tỷ lệ sống >71%.
· Quy trình công nghệ nuôi thương phẩm tôm theo công nghệ copefloc đạt các chỉ tiêu: năng suất từ 12-14 tấn/ha; tỷ lệ sống >71%; kích cỡ tôm 44-56 con/m2; Chi phí sản xuất giảm hơn 30% so với mô hình cùng năng suất.
· Sản lượng nuôi thương phẩm đạt 34,065 tần, kích cỡ tôm 44-56 con/kg.
· Hiệu quả kinh tế của mô hình; chi phí sản xuất giảm 30,5% so với chi phí của mô hình cùng mức năng suất; tỷ suất lợi nhuận/chi phí từ 0.89-1.27, giá thành tôm nuôi từ 54-55 nghìn đồng/kg.
· Tôm thương phẩm không nhiễm bệnh và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm với các yếu tố vi sinh và kim loại nặng
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21233/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)
Nguồn: Cục Thông tin, Thống kê
Nguồn: Cục Thông tin, Thống kê
Last edited: